Chereads / Loạn Thế Hùng Ca / Chapter 21 - Thủy

Chapter 21 - Thủy

Chương 21

 

Thủy

 

Khách mới đến lần đầu thắc mắc chuyện lạ lùng, khách quen bèn giải thích:

 

Theo tín ngưỡng, xưa kia người Dao nơi này dắt trâu bò ngang qua đồng cỏ Phật Chỉ, nào ngờ nhiều con sùi bọt mép, mắt trợn trắng lăn ra chết.

 

Dân hoang mang tột độ, ngày đêm khổ công tìm hiểu nguyên nhân, cuối cùng phát hiện ẩn khuất giữa mờ ảo mây mù, người Dao ở Mẫu Sơn thấy bóng dáng từng đàn ngựa đạp gió, vượt mây, phi nước kiệu xuống đỉnh Phật Chỉ, ung dung gặm cỏ.

 

Một người cao lớn mặc quan phục thiên đình, quàng túi vải, cầm roi theo sát phía sau. Ông ta chọn ngồi gò đất cao tiện quản ngựa, chiều muộn âm thầm lùa ngựa về trời. Lúc này dân chúng nhận ra phạm phải sai lầm, lập đàn cúng lễ, xin Ngọc Hoàng thứ tội.

 

Quần tiên thông cảm kẻ phàm tục vô tri, giúp họ lựa lời giải thích. Thượng Đế nghe hợp tình hợp lý, quyết định xá miễn, ban luật từ đó về sau, hễ muốn đi qua bãi chăn ngựa trời, dân phải đặt một viên đá lên gò đất để xin phép thần cai quản đồng cỏ, trâu bò mới bình an.

 

Dần dà, đỉnh Phật Chỉ hình thành gò đất phủ ngập những phiến đá kỳ lạ. Tạ ơn Thượng Đế tha tội, hằng năm người Dao đến gò đất cao thắp hương cúng tế để bày tỏ thành kính Ngọc Hoàng, cầu mong thần linh ban phước gia súc khỏe mạnh, sinh nở đông đúc.

 

Ông trời không phụ kẻ có lòng, Thượng Đế hào hứng ban thưởng, ngài biến nơi nào thấm đẫm nước bọt của đàn ngựa gặm cỏ, nơi đó hóa thành cánh đồng thảo dược chữa bách bệnh. 

 

Tiếng lành đồn xa, thầy lang tứ xứ không quản đường dài vạn dặm, hăng hái trèo núi băng sông, vượt rừng chông gai đi tìm loại thảo dược thần kỳ.

 

Kể xong câu chuyện đậm tính nhân văn, khách quen cùng khách lạ hồ hởi vào đền. Bóng người bất thình lình từ trong chạy ra, lướt qua cực nhanh. Đám khách ngoái lại chỉ thấy mái tóc bạc bay lất phất giữa sương mù.

 

Việt Thanh vừa cõng Thiên, vừa lao vụt xuống núi. Thầy khẩn trương, trò luôn miệng hỏi lý do gấp gáp, ông không đáp mà nhớ lại mọi thứ trong đền. 

 

Chính điện có ban thờ tạo từ tảng đá to, bên trên đặt lư hương hình chim Lạc, phía sau dựng tượng chàng du mục và Hoa Dung bằng đồng đen.

 

Ông tức tốc kiểm tra tảng đá, nhấc lư hương xem kĩ mấy lượt. Thầy lục soát chung quanh, nhấn vào tượng nhưng chẳng phát hiện điều gì. Nó khó hiểu hành động quái lạ:

 

- Thầy tìm gì thế?

 

Ông nói thứ quan trọng. Mỗi lần tập trung tinh thần, thầy ghét bị làm phiền. Thiên sợ lại bị thầy mắng, nó lật phần "văn hoá cổ đại" ghi bích hoạ truyền thuyết Hoa Tiên Nữ đằng sau tượng. Tương tự tranh huyền thoại Mẫu Sơn, rêu phong bụi mờ khó xoá hình tượng nước trên bích hoạ.

 

Quan sát cách đổ màu kỳ công cùng phương pháp trùng tu, nghệ nhân muốn "nước" và sắc đen với màu xanh nước biển - biểu trưng hành Thuỷ nổi bật nhất ở hai bích hoạ.

 

Tranh khắc hoa văn sống động cảnh hai chim Lạc bị bắn trọng thương. Chàng du mục xuống vực sâu bắt mồi. Đám thợ săn đang bỏ về thấy thế bèn ở lại chờ kết quả, nhưng mưa to gió lớn nên vội đi ngay. 

 

Chàng du mục tìm mọi nơi, lát sau thấy nền đất đầy máu tươi. Đằng xa chim Lạc dốc sức tàn kéo chim con bị sa lầy. Phát hiện bóng người, chim Lạc vỗ cánh hú liên hồi.

 

Chàng chết lặng hồi lâu mới chạy đến nhưng không cứu nổi chim con khỏi bãi lầy. Chim Lạc hú lên đau đớn, thanh âm bi ai như vạn tiễn xuyên tâm chàng du mục.

 

Thảm cảnh khắc sâu tâm trí kẻ đi săn vào nỗi hổ thẹn đuổi cùng giết tận, giờ đây phải cúi đầu trước giống loài bị xem thường là vô tri kia.

 

Chim Lạc gục ngã bất tỉnh, chàng cắt bỏ mũi tên đang cắm sâu cơ thể nó. Mặc gió mưa giá rét, chàng thức trắng đêm chăm sóc nạn nhân. Linh điểu lành vết thương đến lượt chàng bệnh nặng.

 

Những ngày ân nhân dưỡng sức, chim Lạc điên cuồng đánh đuổi thú dữ lăm le ăn thịt. Cuộc chiến kết thúc là lúc chàng bình phục. Chim Lạc nhờ chàng trị thương lần nữa.

 

Người cứu vật, vật trả ơn người. Người và vật cùng nhau vượt qua sinh tử. Linh điểu cảm kích quỳ dưới chân ân nhân.

 

Loài thú chẳng mảy may suy tính, con người tự trách mình nên đứng bất động, con thú bèn bay sang phía Đông Bắc. Loài vật hành xử vô tình theo đúng ý mình, kẻ mặc cảm tội lỗi tìm đường về nhà.

 

Chàng ra khỏi sơn cốc, chim Lạc bay xuống với móng vuốt màu xám. Móng vuốt là vũ khí mạnh nhất của linh điểu, bất kỳ hoàn cảnh nào, nó luôn bảo vệ hơn tính mạng.

 

Linh điểu tặng niềm kiêu hãnh thể hiện tôn trọng ân nhân sống chết có nhau. Linh điểu đợi ân nhân ngồi yên vị trên lưng mới tung cánh bay vụt lên đỉnh núi.

 

Hoa văn người cùng linh thú đón bình minh nơi ngọn núi hình tháp loé sáng trước mắt ông lão. Cảnh tượng đó thúc giục bế học trò, lao nhanh khỏi đền. Nó oai oái kêu chưa chép xong, ông không kiên nhẫn nán lại như mọi lần. Thằng nhóc làu bàu suốt đường đi:

 

- Thầy chẳng giống ngày thường tí nào. Con đã bảo viết dở, thầy vẫn chạy như bị ma đuổi là sao? May con kịp nhìn nốt bức hoạ, bằng không đêm nay lại mất ngủ.

 

Ở đền, nó đoán thầy tập trung cao độ tìm hiểu cổ vật. Nay rời đền nhưng thầy vẫn lơ ngơ, thằng nhóc nổi cáu vỗ nhẹ mặt ông thầy, gào mồm vào tai:

 

- THẦY CÓ NGHE CON NÓI GÌ KHÔNG HẢ??? BỰC MÌNH QÚA!!!

 

Thấy mình trở về thực tại, người thầy nói tới đỉnh núi hình tháp, ông sẽ giải thích. Thầy trò đến nơi, thay vì trả lời, ông hỏi nó:

 

- Con có để ý hai bức bích hoạ ở Mẫu Sơn và Phật Chỉ có điểm gì khác thường không? 

 

Thiên nghe nhắc cổ vật quên luôn đang chờ thầy trả lời. Nó nheo mắt nhíu mày lục lại từng chi tiết:

 

- Hai bức hoạ liên quan tới nước phải không thầy?

 

Ông lão gật đầu xác nhận:

 

- Mọi thứ trên hai bức hoạ liên quan tới nước. Đó là chủ ý nghệ nhân!

 

Thiên ngạc nhiên thắc mắc. Ông lão vừa tìm quanh quất vừa nói về hai bức hoạ. Nó ơ ơ hỏi:

 

- Mái hiên khắc hình phượng hoàng, sông suối đổ về đền mang hình chim Lạc là sao? Hai thứ liên quan tới nhau đâu?

 

Người thầy trả lời:

 

- Sông suối hình chim Lạc hướng mỏ về đền ở Phật Chỉ. Nghệ nhân muốn chúng ta đến núi Phật Chỉ để tìm hiểu đền hình chữ "Thuỷ" trong Ngũ Hành.

 

- Họ muốn nói gì đó hả thầy? Con chịu thua, không đoán được.

 

Ông lão căng mắt lật tìm khắp nơi trên đỉnh núi:

 

- Nghệ nhân muốn chúng ta chú ý mái hiên phượng hoàng. Hình tượng phượng hoàng liên quan truyền thuyết Thuỷ Phụng kiếm - một trong Tứ Linh thần khí!

 

Thiên từng nghe thầy kể nhiều chuyện thú vị về huyền thoại Tứ Linh thần khí, nó phấn khích reo lên:

 

- A, con hiểu rồi. Thuỷ Phụng kiếm và đền hình chữ thuỷ đều thuộc hành "Thuỷ" trong Ngũ Hành. Làm thế để dẫn ta đi tìm thanh kiếm. - Nó ngơ ngác - Ơ, nếu thế phải tìm ở đền trên núi Phật Chỉ mới đúng chứ? Sao thầy lại tới đây? 

 

Ông mỉm cười giải thích:

 

- Ta tìm mọi nơi nhưng không có gì, ngoại trừ hoa văn ngọn núi hình tháp giống đền ở Phật Chỉ. Núi là hồi ức của chim Lạc cùng chàng du mục. Có lẽ bí mật về Thủy Phụng kiếm được chôn giấu trên núi này.

 

Thiên nhăn mặt hỏi:

 

- Sao thầy không nói rõ từ đầu?

 

Ông lão chau mày:

 

- Ta không thể nói nơi có người. Kẻ xấu đến trước để lấy thần khí, hậu quả khôn lường!

 

Thiên gật gù giúp thầy đào xới. Đào mãi chẳng thấy, ông lục tung mọi thứ để níu giữ niềm tin đang lung lay. Từng nhành cây ngọn cỏ, từng lớp đất bị bới nát, cuối cùng chỉ có một cái thạp. Thầy hồi hộp mở nắp, bên trong chứa lớp vỏ trấu dày đặc. Ồng bốc từng nắm trấu trong thạp. 

 

Trò vô tư ngắm cổ vật, lật sách ghi chép. Nó ngồi xổm vừa tả vào sách vừa cọ sạch tạp bẩn trên bề mặt thạp. Lớp bùn đất tróc vỡ từng mảng hiện ra hoa văn phượng hoàng quấn quanh thạp. Nó nhìn chăm chăm, đôi mắt tròn xoe nhướng lên kéo theo cái miệng há hết cỡ:

 

- Thầy ơi thầy, nhanh qua đây xem đi thầy ơi! - Nó với tay kéo ông thầy - Thạp có hình phượng hoàng này thầy ơi!

 

Hai tiếng "phượng hoàng" thắp ngọn lửa hy vọng đang lụi tắt, thầy vội đến xem hoa văn phượng hoàng bay qua sóng nước Biển Đông. Ông đổ hết ra ngoài, vật nằm lẫn vào trấu là túi da dê và dây chuyền bằng thuỷ tinh.

 

Ông chưa kịp phản ứng, thằng nhóc đòi đưa dây chuyền. Hau háu nhòm chuỗi hạt lưu ly màu xanh nước biển sáng lấp lánh, đứa trẻ mân mê mặt dây chuyền hình chim Lạc dang cánh. Lật mặt trái thấy một chữ khắc chìm giống chữ Việt cổ, nó hỏi ông thầy:

 

- Thầy ơi, đây có phải chữ "nác"[1] không?

 

Người thầy chăm chú quan sát. Lấp loáng dưới cảnh tranh tối tranh sáng, nét chữ bất thình thình nháng lên tựa ngọn lửa rực cháy[2]. Chữ "bốc hoả" chỉ thoáng lướt qua, tinh thần ông lão bị hút xoáy vào hiện tượng kỳ dị.

 

- Mau đưa sách cho thầy!

 

Thiên chưa bao giờ nghe giọng thầy vồn vập như vậy. Nó hấp tấp đưa sách và chẳng dám hỏi nữa. Ông thầy lật đến phần Hồng Bàng ký - mục chữ Việt cổ, chữ trên sách phản chiếu ánh chiều tà lập tức "bốc cháy" rừng rực như ngọn đuốc. Hình ảnh quái lạ loé lên rồi vụt tắt.

 

Thầy trò tươi cười mừng rỡ bởi từng thấy chữ này trong sách cổ. Lần đó nó cũng lóe sáng dưới ánh đèn, nay loại chữ ở mặt dây chuyền bùng lên y hệt. Chứng thực cho suy đoán người xây đền khắc chữ muốn hậu thế lần theo dấu vết.

 

Thầy trò mở túi da lấy tranh ra xem. Bức họa vẽ chàng du mục thuở hàn vi làm ngư dân. Thời điểm rời bỏ Mẫu Sơn, chàng giong thuyền vượt sóng ra khơi, Hoa Dung chèo thuyền theo sau.

 

Tháng ngày lênh đênh sông nước, chim Lạc diệt mọi loài thuỷ quái định xâm hại chàng và Hoa Dung.

 

Thiên nhíu mày không hiểu nghĩa trên bức tranh, nó nhướng mắt nom thầy vui khôn tả. Lần đầu tiên thấy thầy bộc lộ cảm xúc, Thiên tò mò hỏi. Ông thầy khẽ cười chỉ mặt trời ló dạng trên tranh:

 

- Mũi thuyền hướng về mặt trời mọc. Họ muốn chúng ta đi về hướng Đông. Chung quanh là sóng nước để xác nhận mọi thứ liên quan "thuỷ" không phải ngẫu nhiên.

 

Nó nhăn mặt gãi tóc:

 

- Nhưng phải nói rõ địa điểm nào ở hướng Đông chớ, thế này biết đường nào mà lần, chẳng lẽ đi về hướng Đông mãi à? - Nó nhăn nhó than - Cả đời cũng chẳng tìm được!

 

Ông thầy phì cười bộ dạng khó chịu của học trò:

 

- Xem bài thơ này đi!

 

Ông lật mặt sau bức tranh cho nó đọc dòng nhắn nhủ:

 

"Ngươi là người hữu duyên chúng ta chờ đợi ngàn năm nay! Mong ngày gặp mặt!"

 

Dưới lời chào hỏi là bài thơ:

 

Sương bạc mây trời

 

Khói phủ Ngàn Nưa

 

Sông núi như tranh

 

Rừng xanh như hoạ

 

Ngoại bang xâm lấn

 

Người thú cùng sống

 

Đông chinh Bắc chiến

 

Người thú cùng chết

 

Ngàn thu bất diệt!

 

Thiên đọc đi đọc lại mới hiểu thơ nói về Bà Triệu chống quân Đông Ngô ở Núi Nưa. Nó cười tươi rói hỏi thầy:

 

- Họ đợi chúng ta ở Núi Nưa, phải không thầy?

 

Ông không dám khẳng định:

 

- Chúng ta đến đó mới có thể xác định.

 

Thiên náo nức đòi đi ngay. Người thầy bật cười xoa đầu học trò:

 

- Đại hội võ thuật kết thúc, chúng ta sẽ đi!

 

Chú thích

 

Nác nghĩa là nước. Đây là từ Việt cổ:

 

Link nguồn

 

http://dwrm.gov.vn/index.php?language=vi&nv=news&op=Tai-nguyen-nuoc/Tan-man-chu-nuoc-trong-tieng-Viet-5505

 

[2]Dạng chữ như ngọn lửa này lấy cảm hứng từ chữ Khoa Đẩu thời cổ đại.