Download Chereads APP
Chereads App StoreGoogle Play
Chereads

Anderewelt's Hero

DaoistIMY3xk
--
chs / week
--
NOT RATINGS
15.2k
Views
Synopsis
Tenno, một cậu học sinh cao trung năm 2 với cuộc sống học đường vô vị và chán nản, bỗng một ngày được triệu hồi đến một thế giới khác, được gọi là Anderwelt để giải quyết những rắc rối. Liệu hành trình giải cứu thế giới của cậu có được yên ổn ?
VIEW MORE

Chapter 1 - Chapter 1: The beginning

Ngày 31 tháng 12 năm 300 theo lịch Lapatorio,

Tại Apolique*, thành phố trung tâm của Vương Quốc Halion*, mọi người đều đổ xô ra những con hẻm, ngóc ngách của thành phố. Những con đường được rải đá trải dài theo dãy nhà gỗ thô sơ đều nhộn nhịp hơn những ngày thường.

"Rầm, rầm, rầm."

Tiếng bước chân tràn đầy sự vui mừng xen lẫn chút mong đời của người dân đã làm con đường được rải đá rung động, tạo thành một bản nhạc vui tươi với tiếng reo hò, tiếng bước chân và âm thanh của những hòn đá va chạm với mặt đường. Đây là vùng ngoại ô của thủ đô Apolique, giáp ranh với những vùng nông thôn của Vương quốc Halion. Càng đi gần về Vương điện, không khí ăn mừng ngày càng lớn và quang cảnh của thành phố càng xa hoa hơn. Những khu vực xung quanh Vương điện đều thuộc về tầng lớp thượng lưu trong vương quốc.

Những gia đình mang dòng máu quý tộc hay là những nhà buôn giàu có đều cố gắng chen chân nhau để tranh giành những mảnh đất đắt hơn vàng này. Dù chỉ là một căn nhà nhỏ ngang với căn nhà gỗ vùng ngoại ô nhưng nếu được đặt tại nơi đây thì lại có giá trị khủng khiếp, thậm chí những người lao động phải tốn hết nửa cuộc đời lao động cực khổ mới có thể sở hữu được căn nhà này. Chưa kể càng ở gần lâu đài thì thuế lại càng cao, do đa số những người sinh sống tại nơi đây là những bá tước, tử tước, đại quý tộc và thương nhân tầm cỡ, cho nên dù có dùng hơn nửa cuộc đời của mình để có thể chi trả cho căn nhà tồi tàn thì cũng không lạ gì khi họ không sống sót nổi qua đợt nộp thuế hằng năm.

Trở về khu ngoại ô thô sơ, nơi đang được bao phủ bởi bầu không khí vui vẻ, những nhà hàng, lữ quán và thậm chí những sạp đồ bên lề đường đều chật kín người. Tất cả mọi người đều đổ xô ra đường tận hưởng cái không khí mỗi năm một lần này.

Trong một quán rượu nằm trên con đường chính, lượt khách lui tới không ngừng làm cho ta liên tưởng một dòng người vô tận đang tràn vào bên trong.

"Ông chủ, cho thêm phần đặc biệt nào!"

Một vị khách giơ cái đĩa sạch bóng không còn chút đồ ăn nào của mình lên và lớn tiếng gọi chủ quán. Cũng thường thôi khi mà những tiếng kêu bình đều sẽ bị lấn át bởi sự ồn ào trong cái tình huống như thế này. Tiếng gọi đó đã kéo theo một chuỗi đặt món dài đằng đẵng.

"Cho thêm dĩa cơm rang đê!"

"Thêm 1 chai rượu với phần đồ nhắm nào."

"Thêm 1 đĩa xà lách cho bên này đi ông chủ."

Nếu những ai mà không quen được với tiếng ồn chắc sẽ phát điên vì sự huyên náo tại nơi đây. Toàn bộ nhân viên đều đẩy công suất làm việc của mình lên mức tối đa, những tiếng chạy không ngừng nghỉ để mang thức ăn và đồ uống tới để thỏa mãn những cái miệng không đáy này. Việc họ có thể dừng lại một chút và hít thở một hơi cũng có thể coi là xa xỉ, với mật độ công việc như thế này có thể thấy được công việc bồi bàn khó như thế nào. Chỉ mỗi sự tận tình với khách hàng thôi là không đủ, khả năng phản xạ thần thánh, một trí nhớ siêu phàm có thể nhớ được hàng chục đơn món trong tích tắc và một tốc độ phục vụ vượt xa người thường là những cụm từ có thể diễn tả chính xác những người nhân viên tại đây. Và điều không thể tránh khỏi sau khi hoàn thành khối lượng công việc khổng lồ đến khó tin, họ đều mệt lã, tứ chi như rụng rời, việc họ có thể nói được trong lúc bây giờ có thể được xem là một kỳ tích. Phải tốn đến 3 ngày hoàn toàn nghỉ ngơi họ mới có thể tiếp tục công việc của mình một cách bình thường. Nói không ngoa nhưng những người phục vụ ở đây đều có thể lực hơn người và hoàn toàn có thể trở thành những mạo hiểm giả nếu không may họ bị đuổi. Trên khuôn mặt họ hoàn toàn không biểu hiện ra sự mệt mỏi, một nụ cười thân thiện cùng với vẻ mặt vui vẻ là những gì những vị khách ngồi đây có thể miêu tả, họ dường như sinh ra để dành cho khoảnh khắc này.

"Mới thoáng đây mà đã 300 năm rồi nhỉ? Mọi thứ trôi qua nhanh quá!"

Một giọng nói phát ra từ quầy rượu, một người đàn ông trung niên khoảng độ hơn 50 tuổi, đang ngồi nhắm nháp miếng rượu cùng dĩa đồ nhắm đã gần hết của mình. Một con người cân đối, những bắp tay không quá đô nhưng vẫn đủ để cho người ta thấy được sự khỏe khoắn trong con người này. Ông toát lên mình khí chất của một người đã từng phục vụ trong hoàng gia, một người lính cận vệ.

"Đừng nói như mình già như thế chứ ông bạn."

Có vẻ cách nói chuyện thể hiện họ là những người bạn khá thân. Ông chủ quán nói với một điệu bộ. Khác hẳn với người đàn ông trung niên kia, chỉ cần nhìn lướt qua ông là đủ để mọi người nhận ra ông từng là một cựu binh.

Làn da rám nắng, thân hình đồ sộ cơ bắp cùng với một vết sẹo dài khoảng 1 ngón tay bên má phải là những gì người ta có thể miêu tả từ ông. Nhưng trái lại với vẻ đáng sợ của 1 cựu chiến binh toát ra từ ông, một vẻ mặt vui vẻ cùng với một đôi mắt thân thiện đang đối thoại với ông bạn trung niên của mình.

"Kể từ gia tộc Vasilion* nắm vương quyền thì mọi thứ như khá hơn hẳn nhỉ?"

"Phải đó, dù gì cũng tốn 50 năm để có thể ổn định lại vương quốc sau trận chiến với Đế Quốc Kaosriket mà."

300 năm trước, xung đột giữa Đế Quốc Kaosriket và lãnh thổ Lapatorio lên đến đỉnh điểm. Một đội quân tinh nhuệ gồm 30000 quân bộ binh, 2000 pháo binh và khoảng 5000 pháp sư chiến đấu trên mặt đất, phối hợp với 1 đoàn gồm 1000 wyverns trang bị vũ trang được Đế Quốc Kaosriket cử đi để chinh phục Lapatorio.

Wyvern, một chủng loài thường bị đánh đồng chung với loài Dragon, nói theo một cách đơn giản thì chúng chính là hậu duệ của những Dragons huyền thoại sinh sống tại Dãy núi Fronstiera. Wyvern có kích thước nhỏ hơn so với loài Dragon. Wyvern chỉ có 2 chi sau, khác với Dragon có 4 chi, 2 chi trước của chúng đã bị tiêu biến do quá trình chọn lọc tự nhiên. Những con Wyverns 4 chi thường bất lợi hơn so với những Wyverns 2 chi khi mà kích thước của Wyverns thuộc vào hàng tương đối hoặc trung bình lớn, do đó 4 chi thực sự là không cần thiết do sẽ làm giảm tốc độ di chuyển của các Wyverns, vì Wyvern được biết đến là một trong những chủng loài rất tốt về mặt không chiến và cũng rất dễ thuần hóa (do chưa từng có trường hợp thuần hóa được Dragons). 2 chi trước bị tiêu biến đã dẫn đến cánh của chúng rất phát triển, sự tiến hóa này dẫn đến sự linh hoạt tuyệt vời của chúng khi ở trên không, phù hợp để làm lực lượng chính trong không quân. Giống tổ tiên của chúng, loài Wyvern có lớp vảy khá cứng, có thể chống lại lưỡi kiếm và một vài loại cung tên của hệ thống phòng không. Ngoài ra Wyverns có thể thở ra lửa và khí ga độc, chính vì vậy ta sẽ thường thấy những đội không quân thường treo 2 thùng dầu bên lưng của Wyverns để lợi dụng lửa và khí ga của chúng nhằm tăng độ thiệt hại và quy mô của các cuộc không kích.

Từ trận chiến năm đó, Liên minh giữa các nước thuộc lãnh thổ Lapatorio đã được thành lập, trong đó Vương Quốc Con Người Halion đứng vai trò chủ chốt trong liên minh lần này nhờ vào thuật triệu hồi anh hùng đặc biệt của mình.

Một trận chiến với quy mô chưa từng có đã diễn ra tại Cổng Naraka*, nếu diễn tả một cách chính xác hơn về cổng Naraka thì nó giống một đường hầm hơn là cổng. Một đường hầm khá dài nằm sâu trong dãy núi được canh giữ bởi những sinh vật thần thoại. Những binh đoàn Undead và các kỵ sĩ Wyvern đã vượt qua đường hầm và tiến đến Lapatorio. Trận chiến kéo dài 2 tuần và sau này được tất cả chủng biết đến qua cái tên "Trận chiến Naraka".

Tác động của trận chiến này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến cán cân của các vị thần, đây là lần đầu tiên các vị thần bắt buộc phải can thiệp vào trận chiến khủng khiếp này. Một cuộc họp giữa các vị thần tối cao đã diễn ra, các vị thần lãnh đạo đã đề xuất cuộc họp này là: Thần Zeus (Vua của các vị thần), Thần Shiva (Thần hủy diệt), Thần Odin (Người cai quản Asgard), Thần Atum (Thần sáng tạo), Thần Amaterasu (Thần Mặt trời); đã quyết định thành lập một đội quân đàn áp và đồng thời phô trương sức mạnh áp đảo của các vị . Trong đội quân đàn áp (God's Army) được lãnh đạo bởi Chiến Thần Ares gồm có: Thần Artemis, Thần Montu, Thần Hachiman, Thần Thor cùng 3 valkyries và thần thú vận chuyển 7 người bọn họ là rắn thần Naga.

Ngày thứ 14 của trận chiến Naraka,

Mặt đất nơi chiến trường bị phá hủy hoàn toàn, một phần chân núi Fronstiera nằm gần cổng Naraka vẫn chưa ngừng cháy và tỏa khói bụi đến các vùng lân cận của Lapatorio kể từ ngày đầu tiên bắt đầu cuộc chiến.

Từ một đồng cỏ xanh tươi tràn đầy sức sống mà giờ đây đã trở thành một vùng đất chết, hoang tàn và nứt nẻ. Tiếng kim loại va đập với nhau không ngừng, ngay cả vùng trời phía trên cũng không thể thoát khỏi cuộc chiến, những đôi cánh dang rộng đủ che phủ cả bầu trời của đội Wyverns cùng với những tiếng gầm rú đủ làm con người ta kinh sợ. Những giọt máu đỏ thẫm của các Wyverns hòa cùng với thứ chất lỏng trơn trượt màu vàng nhạt chảy ra khỏi những thùng chứa ở 2 bên chúng, tạo nên viễn cảnh như một "cơn mưa tử thần" đã kéo dài 2 tuần, gồm dầu và máu, mang đến sự diệt vong cho những sinh vật xấu số dính phải.

"Roarrrrrrrr"

Một con Wyvern trong đội đã bắt đầu phun lửa, ngọn lửa khi chạm phải dầu đã bùng cháy mãnh liệt, thiêu rụi mọi thứ xung quanh. Những tiếng gào thét trong sợ hãi cùng nỗi tuyệt vọng ngày một dâng trào của các chiến binh Lãnh thổ Lapatorio đã làm cho bầu không khí mang sẵn trong mình sự kinh hoàng và dã man ngày càng thêm to lớn. Những bộ giáp ngày trước dùng để đảm bảo an toàn cho họ giờ đây lại phản tác dụng như những con dao hai lưỡi. Những bộ áo giáp đã bị bao phủ bởi dầu và thấm vào bên trong bộ quân phục của những chiến binh, tạo nên một môi trường bắt lửa không thể nào hoàn hảo hơn. Ngọn lửa len lỏi vào bên trong áo giáp và bùng lên dữ dội, bám vào da thịt của những chiến binh. Giống như việc mắc kẹt trong bãi cát lún vậy, họ càng vùng vẫy thì những mảng da thịt của họ càng bong tróc ra nhanh hơn, để lộ những bó cơ đỏ tươi đang rỉ máu và co giật do kích thích nhiệt.

Những giọt dầu bám lên mắt, miệng họ cũng đã bắt lửa, trong chốc lát, cảm giác nóng bừng phát ra từ cổ họng cùng với một màu đen kịt bắt đầu che lấp tầm nhìn của họ. Họ như đang gào thét thảm thiết trong đau đớn nhưng lại không nghe thấy một tiếng kêu rên nào, một phần là vì dây thanh quản của họ đã bị thiêu rụi. Cho đến khi ngã xuống, những gì còn sót lại từ họ chỉ là phần thi thể đã cháy đen cùng với những miếng thịt đã bị nướng chín còn bám lại họ cùng với bộ giáp đã xỉn màu và có dính vài mảng da cháy đen. Hai hốc mắt đen kịt, trống rỗng cùng với bộ dạng kêu la thảm thiết khi chết đã ám ảnh đến những người không may chứng kiến cho đến tận bây giờ.

Cảm giác cái chết đang từ từ gặm nhấm cơ thể, bị ngọn lửa thiêu cháy bên trong lẫn bên ngoài, sự đau đớn khi từng mảng da thịt bong tróc ra khỏi cơ thể và không thể thoát ra dù cho vùng vẫy đến điên loạn, nếu so sánh giữa cái chết này với cái chết bởi Brazen Bull* thì có lẽ Brazen Bull vẫn còn hơi nhẹ nhàng.

Không khí nồng nặc mùi dầu, khói và mùi máu tươi từ các chiến binh. Những chiến binh đến từ nhiều chủng tộc khác nhau, gồm: Elves, Dark Elves, các tộc Á Nhân, con người và những tộc khác. Trong trận chiến kéo dài nửa tháng ấy, con người là tộc đóng vai trò quan trọng nhất, khi mà việc vị Anh hùng được triệu hồi dẫn dắt đội quân tiên phong liên tục xuyên thủng hàng phòng ngự của Đế Quốc. Những xác chết của các chiến binh cùng các undead chồng chất lên nhau và rải rác khắp nơi, nồng nặc mùi thối rữa, máu chảy thành suối từ những núi xác chết. Thậm chí nếu sau trận chiến, cảnh quang xung quanh được cải thiện, dù có những lời đồn đại về những loài thực vật sinh trưởng nhờ máu từ cuộc chiến Naraka thì cũng không còn gì để bất ngờ nữa.

Lúc trận chiến dâng đến đỉnh điểm, khi tổ đội Anh hùng bị bao vây bởi hàng ngàn Undead, các Wyverns thì bay theo hình tròn ngay trên đỉnh đầu họ như những con kền kền đang chờ đợi con mồi đến khi kiệt sức thì mới bắt đầu tấn công. Mỗi giây trôi qua thì áp lực ngày càng bóp nghẹt con tim của những chiến binh. Những nhịp thở đứt quãng cùng những khuôn mặt căng thẳng xuất hiện một lúc càng nhanh hơn.

"Bùmmmmmmmmm"

Một âm thanh to lớn xé toạc cả bầu trời và phá vỡ bầu không khí căng thẳng của trận chiến. Một tia sáng mạnh mẽ đủ để chiếu rọi cả một vùng trời chiếu xuống mặt đất cùng âm thanh đủ để nghe thấy khi đứng ở Đại Lâm Ratswald, trung tâm của Vùng đất Lapatorio.

"Bỏ vũ khí xuống ngay những giống loài hạ đẳng."

Một giọng nói đanh thép phát ra từ bên trong ánh sáng. Một con mãng xà khổng lồ có kích cỡ lớn hơn cả những Dragons. Toàn thân là bộ vảy đen bóng được bọc bởi kết giới Hắc ma thuật. Hơi thở cực độc lan truyền trong không khí, những cặp mắt từ 7 cái đầu bắt đầu di chuyển qua lại, sau đó lại tập trung vào trung tâm chiến trường. Một không khí chết chóc nhanh chóng bao trùm toàn bộ chiến trường, đến cả những undead cũng phải sựng lại và bất ngờ.

Trên cái đầu thứ tư của con thần thú, đầu to nhất của con mãng xà, một người đàn ông lực lưỡng với bộ giáp bằng một thứ kim loại thần thánh không thể bị xuyên thủng, đầu đội giáp mũ che kín cả khuôn mặt và trên đỉnh đầu được đính thêm lông vũ của những con Phoenix thần thoại. Tay phải ông nắm chặt ngọn giáo đang cháy bởi ngọn lửa vĩnh cửu với những hoa văn chạm trổ tinh xảo, tay trái mang theo một tấm khiên tròn sáng lấp lánh, một viên ngọc đỏ rực bốc cháy được khảm ở tâm tấm khiên và những hoa văn dát vàng được đính lên tấm khiên. Đôi mắt rực lửa nhìn xuyên qua mũ giáp đáp thẳng vào trung tâm chiến trường, tỏa ra vầng hào quang thần thánh xung quanh. Từ trong luồn sáng vọng lại tiếng nói:

"Hãy nhớ lấy tên ta hỡi những loài sâu bọ kia! Ta là Thần Chiến tranh Ares, ta đã được các vị thần tối cao cử xuống cùng đội đàn áp của ta để chấm dứt cuộc chiến này."

Những người chứng kiến đều tỏ ra ngạc nhiên và kinh hãi trước khí chất thần thánh cùng ánh mắt đầy quyết tâm của Ares. Ares tiếp tục đưa ra những lời lẽ đầy đe dọa:

"Cuộc chiến đến đây là kết thúc, nếu các ngươi vẫn tiếp tục chiến đấu thì đừng trách bọn ta dùng vũ lực."

Những lời này như một đòn giáng mạnh vào ý chí chiến đấu của những người trong cuộc chiến. Tất cả đều buông vũ khí xuống và cũng không còn ý định chiến đấu nữa, vì họ cũng không dại gì khi mà chọc tức các vị thần. Tổ đội của Anh hùng thở phào nhẹ nhõm, mọi áp lực như tan biến, hòa mình vào chút không khí yên bình ít ỏi nơi chiến trường này.

"Được cứu một phen rồi nhỉ."

Anh hùng thở phào nhẹ nhõm, trước đó vài phút anh đã tưởng mình và các đồng đội sẽ bỏ mạng tại nơi đẫm máu này. Nhìn xung quanh đồng đội của anh, tuy họ không biểu hiện gì ra bên ngoài nhưng anh biết sâu bên trong đang nhảy cẫn lên vì sung sướng. Mọi áp lực, nỗi sợ đều được thanh tẩy bởi tia hi vọng, sự cứu rỗi của các vị thần.

Bỗng dưng từ bên kia chiến tuyến, một tên khổng lồ cao gần 5 mét, cơ bắp cuồn cuộn, 4 tay của hắn lăm lăm vũ khí, chạy như điên dại về phía các vị thần. Mặt của hắn lộ rõ mạch máu và những đường gân guốc ở cổ. Con ngươi trợn trắng và hiện rõ được những mạch máu nhỏ li ti đang căng lên trong nhãn cầu, một con thú điên loạn và khát máu mất đi lí trí lao như tên bắn về phía rắn thần Naga.

"Tên đó..."

"Ngài Anh hùng biết tên đó là ai hả?"

"Nếu ta nhớ không nhầm thì đó là tên tướng lĩnh của Đế Quốc Kaosriket trong cuộc chiến lần này."

"Ồôôôô!"

Người Anh hùng đưa cặp mắt ngạc nhiên về phía hắn, những người đồng đội của anh sau khi nhận được câu trả lời cũng bắt đầu đưa mắt theo.

(Thật ngu ngốc)

Vị Anh hùng thầm nghĩ và tiếp tục đưa mắt về tên khổng lồ như chỉ chờ đợi cảnh tên đó gục ngã khi chưa đụng được vào Naga. Từ đằng xa bỗng vọng lại tiếng của tên khổng lồ:

"Câm miệng đi thằng khốn kia! Mày làm gì có quyền mà ngăn cản tụi tao chiến tranh. Kết quả của cuộc chiến này không phải việc của lũ thần thánh giả dối như chúng mày có thể xen vào. Khi tao tới được chỗ của mày thì mày chuẩn bị chết đi. Tao sẽ lấy cái đầu của mày như là biểu tượng cho chiến thắng của Đế Quốc Kaosriket!"

Những tiếng rầm rầm từ bước chân khổng lồ của hắn làm chấn động mặt đất xung quanh. Tốc độ lao đến của hắn một lúc một nhanh hơn, chẳng mấy chốc đã có thể chạm được vào Naga.

(Đúng là rác rưởi, hắn không nhận ra sự chênh lệch sức mạnh giữa hắn với ta ư?)

Ares thầm nghĩ trong đầu, mang danh là Thần Chiến tranh, ông đã rất háo hức để có thể quan sát và nếu được các vị thần tối cao đồng ý, ông có thể càn quét đám này trong vài phút. Nhưng mệnh lệnh dành cho ông là dừng cuộc chiến nên ông đành phải nghe theo trong sự nuối tiếc.

(Nên ban cho hắn cái chết như thế nào đây: nên ban cho một cái chết nhân từ không đau đớn như một sự cứu rỗi và lấy đó để đe dọa với lũ còn lại, hay là cho hắn sống một cuộc sống sống không bằng chết và dùng nó để răn đe?)

Những dòng suy nghĩ bắt đầu xuất hiện trong tâm trí của Ares. Đối với một người não toàn cơ bắp, mọi thứ ông biết đều là về chiến tranh thì những chuyện này quả thật không bình thường chút nào. Tuy nhiên, một âm thanh lạ đã chặn đứng dòng suy nghĩ của ông. Một tiếng "Vútttt" đã xé toạc bầu không khí, một mũi tên được bắn ra với một tốc độ không tưởng để lại một vệt dài màu xanh lam huyền ảo. Quả nhiên khi ông nhìn thấy mũi tên ấy thì tâm trí ông đã bình thản trở lại. Ông nhìn sang người phụ nữ đang đứng trên đầu con rắn bên cạnh, tấm tắc khen ngợi:

"Mũi tên vẫn lạnh lùng và sắc sảo như ngày thường nhỉ, Artemis."

Ngay bên phải ông, một mỹ nhân tuyệt đẹp, mái tóc xanh mướt như bầu trời được búi gọn gàng để không rũ xuống vai và cài thêm một cành nguyệt quế. Thân hình mảnh mai khoác lên một bộ quần chuyên dụng cho các thợ săn, lộ rõ những đường cong mềm mại làm tăng thêm độ quyến rũ của người. Khuôn mặt thanh thoát, rạng ngời cùng với sống mũi cao và bờ môi mềm mại, trái ngược với những nét đẹp đủ làm bao nhiêu cánh đàn ông rụng rời, một ánh mắt xanh biếc sâu thẳm, vô cảm, giá lạnh như băng nhìn về phía tên khổng lồ.

"Cuối cùng cũng có cơ hội được thực chiến nhỉ?"

Artemis vừa nói vừa xuýt xoa cây cung được rèn từ kim loại của thần linh của mình, cùng với ống tên vàng được đeo bên hông, cô đã thể hiện được rằng mình xứng đánh với danh hiệu "Thần Săn bắn". Tại Thần giới, cô không được thường xuyên xuống Anderewelt để săn bắn do những điều luật trong Thánh Luật (các vị thần không được nhúng tay vào tình hình của thế giới dù chỉ là nhỏ nhất). Thực chất cô có thể xuống Anderewelt để săn bắn nhưng cần phải thông qua sự cho phép của GMD (Cục quản lý các vị thần), và cô cũng không phải là tuýp người thích những thủ tục rườm rà và phức tạp. Một lý do khác chính là cái danh hiệu "Thần Săn bắn", thứ cô mong muốn chính là sự tự do.

(Nếu được xuống Anderewelt mà mất đi sự tự do của mình thì còn gì thú vị nữa nhỉ?)

Cô thầm nghĩ như thế và lại lia mắt nhìn xung quanh chiến trường.

"Áaaaaaaa…."

Tên khổng lồ 4 tay la lớn trong đau đớn, điên cuồng giãy giụa, dùng hết sức mình để cố rút mũi tên ra. Nhưng mọi sự cố gắng đều vô dụng, mũi tên ấy cắm chặt vào ngực tên khổng lồ, đó là mũi tên đã được phủ một phép thuật cường hoá được gọi là "Phước lành của thợ săn" ("Hunter's blessing"), khi con mồi bị đánh dấu bởi phép này, càng cố vùng vẫy thì mũi tên sẽ càng tiến sâu vô trong cơ thể và mũi tên ấy không thể nào rút ra được.

Đối với những chủng sinh sống tại Anderewelt thì phép "Phước lành của thợ săn" là một phép cao cấp của class thợ săn, chỉ có những người thợ săn dày dặn kinh nghiệm hoặc săn được những loài thú hiếm có thì mới có thể sử dụng được kỹ năng này, và kỹ năng chỉ có tác dụng với thú và quái vật cấp thấp hoặc trung. Nhưng ở đây phép này lại có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến tên bốn tay này, chứng tỏ sức mạnh của Artemis là không tưởng. Tên khổng lồ gào théo trong đau đớn và tiếp tục lao tới Naga:

"Đừng coi thường ta lũ thần thánh giả tạo kia, các ngươi là cái thá gì chứ. Ta là "Tướng quân bất bại" Rogue của Đế Quốc Kaosriket, ta tuyệt đối không chịu thua trước màn kịch của các ngươi! Cứ đứng tại đó đi Ares, rồi tao sẽ đến lấy đầu của từng người một."

"Đúng là thứ côn trùng lắm mồm."

Artemis vẫn giữ ánh mắt khinh bỉ nhìn về phía Rogue. Trông hắn như một thứ cặn bã gào thét những lời ngông cuồng trong cơn đau đớn và tuyệt vọng. Cô thu cây cung về bên hông của mình, bờ môi của cô cử động như đang khai triển phép thuật.

"Katafytos*"

Mũi tên đang ghim chặt vào ngực của Rogue đột nhiên di chuyển. Từ bên trong mũi tên, mọc ra vô số rễ cây lan rộng ra khắp người. Tên khổng lồ Rogue giẫy giụa, những bó rễ đâm xuyên qua người tên đó và cắm thẳng xuống đất, cơ thể loang lổ những vết rễ cây xuyên thủng từ bên trong ra ngoài. Đôi mắt trợn trắng và từ bụng hắn mọc lên một cây đại thụ khổng lồ. Thân cây phải một đội sáu người dang tay ôm mới bao hết được, tán cây trải rộng che phủ mặt đất trong khu vực xung quanh 100 mét. Thân cây đủ dài để có thể nhìn thấy được từ mọi vùng của Lapatorio. Cái xác khô héo như bị hút cạn sinh lực của Rogue dần bị kéo sâu vào bên trong bộ rễ.

Tất cả những người chứng kiến đều phải kinh ngạc, đến cả vị Anh hùng cũng phải toát mồ hôi vì không nghĩ hắn sẽ bị hạ gục theo một cách dễ dàng đến như vậy.

Phép Katafytos (Overgrown) là một loại phép thuật dạng can thiệp vật lý tác động lên tính chất của một sự vật, một phép cao cấp của hệ Mộc. Katafytos có thể đẩy nhanh tốc độ sinh trưởng của thực vật được chọn lên mức tối đa . Các Druids lão làng cũng có thể thi triển phép này nhưng cũng không thể bắt kịp tốc độ vừa nãy. Về cơ bản thì phép này dùng ma lực của người thi triển để tăng cường tốc độ trao đổi chất của tế bào, đẩy tốc độ phân chia của các tế bào lên mức cực đại, phép thuật này chỉ có tác dụng lên thực vật. Đối với những Druids lão làng thì sẽ hình thành cầu nối ma lực và truyền ma lực một cách từ từ qua cây. Vì vậy có thể thấy được ma lực của Artemis lớn cỡ nào khi có thể đẩy tốc độ phát triển gần như tức thì. Ngoài ra tùy vào loại hạt giống cũng có thể ảnh hưởng đến độ hiệu quả của ma thuật. Ở đây Artemis đã sử dụng hạt giống của các hậu duệ của cây thế giới Yggdrasil nên đã phát huy triệt để khả năng của phép thuật này. Tuy nhiên phép thuật này có một hạn chế, là ma pháp này chỉ có tác dụng thúc đẩy sự sinh trưởng của thực vật, nhưng nó không cung cấp những nguyên liệu cần thiết cho quá trình sinh trưởng của thực vật. Vì thế nên khi đẩy tốc độ sinh trưởng lên mức cực đại có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường xung quanh.

Khi Artemis phát động phép thì cơ thể của Rogue đã trở thành môi trường hoàn hảo để cung cấp cho hạt giống chất dinh dưỡng. Khi rễ cây xuyên qua mặt đất đã hấp thụ hết mọi thứ trong đất, nhưng khi đó mặt đất đã không còn sự sống nào, chỉ còn những bộ áo giáp và vũ khí nằm lăn lóc khắp nơi, những làn bụi đen do tro của các chiến binh bị thiêu cháy bởi Wyverns bay trong không khí, những vùng dầu và máu bắt đầu ngấm vào trong đất. Nên có thể nói phép thuật này là một mũi tên trúng hai đích khi vừa có thể giết được tên khổng lồ và đồng thời có thể thanh lọc môi trường xung quanh.

Trong thoáng chốc, một cây đại thụ đã sừng sững mọc lên giữa chiến trường, che lấp cả bầu trời. Những chiếc lá xanh mướt bắt đầu rơi xuống, khi những chiếc lá đầu tiên chạm mặt đất, chúng đã tan biến nhưng đồng thời tại khu vực chúng rơi lại có dấu hiệu sự sống trở lại. Những đốm xanh dần dần phủ lên bề mặt của chiến trường màu đỏ thẫm, từng mảng cỏ cùng vài bông hoa bắt đầu hiện lên. Cảnh tượng xung quanh đã làm cho mọi người phải kinh ngạc, nơi đây cứ như chưa từng xảy ra trận chiến nào cả. Một đồng cỏ xanh tươi và tràn đầy sức sống đã được tái hiện thậm chí còn tốt hơn trước khi trận chiến bắt đầu.

"Còn tên ngu ngốc nào muốn đứng lên thách thức nữa không?"

Lời nói của Ares như đánh động vào lũ undead và đám Kỵ sĩ Wyvern. Bọn chúng đứng ngây người ra, tuy những Undead không có trí khôn nhưng trong tình huống này thì chúng vẫn nhận thức được đây không phải là thế lực mà chúng nên động vào. Những tốp Undead và Wyverns bắt đầu lui dần về phía cánh cổng Naraka. Bỗng từ trong đoàn Undead, một kỵ sĩ cưỡi trên mình một con bạch mã, mang trên mình bộ giáp bạch kim cùng với cây cung bạc và một thanh trường kiếm giắt ngang hông. Bên trái bộ giáp có chạm khắc quốc huy của Đế Quốc Kaosriket, khuôn mặt được ẩn giấu bên trong chiếc mũ giáp sáng bóng. Nhìn từ khí thế và điệu bộ có thể thấy được quyền lực và sức mạnh của người đàn ông này còn hơn hẳn tên Rogue ban nãy, có vẻ là thủ lĩnh thực sự của đội quân này. Ông dần bước ra khỏi đám Undead, đối diện với Naga cùng các vị thần với ánh mắt không hề sợ hãi. Người đàn ông điềm đạm nói:

"Xin thứ lỗi cho sự ngông cuồn của cấp dưới của tôi. Xin tự giới thiệu tôi là Conquest, một kỵ sĩ thuộc Tứ kỵ sĩ Tai ương phục vụ trực tiếp dưới quyền của Đức vua Kaosriket. Phụng sự của Bệ hạ tôi nhận được lệnh chinh phạt vùng đất phía Đông bên kia dãy núi Fronstiera. Không ngờ cuộc chiến của hai lãnh thổ lại có tác động tới các vị thần, tôi sẽ rút quân và quay trở về báo cáo với Đức vua. Thứ lỗi vì đã khiến các vị phải tốn công xuống tận đây."

Khác với tên Rogue não toàn cơ bắp, Conquest tỏ ra là một con người hiểu chuyện và mưu lược, trong tình huống thế này thì lựa chọn của Conquest rõ ràng là hợp lý nhất. Anh biết rằng nếu cứ tiếp tục đánh thì cũng chẳng được lợi gì, chưa kể sẽ bị tổn thất quân số nặng nề do có các vị thần can thiệp, nên bây giờ rút quân có lẽ là lựa chọn duy nhất. Vừa bảo toàn được lực lượng và cũng có thể báo cáo những gì đang xảy ra cho Đức vua. Theo những gì anh đã chứng kiến, thì cho dù có tập hợp cả toàn bộ binh lực của Đế quốc thì cũng không thể chiến thắng một cách dễ dàng.

"Hahaa, ta mừng vì ngươi hiểu chuyện, không giống như tên cấp dưới của ngươi nhỉ? Dù gì ta cũng không muốn động tay động chân lắm nên ta đồng ý với lựa chọn của ngươi."

Ares cười lớn, cuối cùng kết quả cũng như ông đã đoán trước. Quân đội Kaosriket dần đi về phía cổng Naraka và biến mất dần trong hang động.

"Giờ thì..... Dù gì cũng tốn công xuống đây rồi, nên làm gì để thay đổi không khí tí nhỉ?"

(À, thế cũng hay nhỉ)

Một ý tưởng chợt lóe lên trong đầu của Ares, ông triệu hồi hai ngọn giáo và ném chúng xuống khu vực cổng Naraka.

"Mang danh là cổng nhưng không có ai bảo vệ hết nhỉ?"

Sau đó ông bắt đầu khai triển phép thuật:

"Guardian Creator: Freiheit*"

"Guardian Creator: Gesetz*"

Guardians Creator (Sáng tạo Vệ thần), một phép thuật hệ Vô thuộc sở hữu độc quyền của Ares, cho phép ông tạo ra những vệ thần bằng đá hoặc các vật liệu mà ông chạm vào và có thể tinh chỉnh các chỉ số của vệ thần như: chức năng, kỹ năng, khả năng phòng thủ, sức tấn công, độ linh hoạt,.... Ngoài ra ông còn có thể ra lệnh cho các Vệ thần, như trong trường hợp này là ra lệnh canh giữ cổng Naraka cho Freiheit và Gesetz.

"Đừng để ai ở hai phía có thể vượt qua được đây, nghe rõ chưa Freiheit, Gesetz. Ta đã nhờ Hephaetus rèn vũ khí từ Uru của Eitri và Brokkr* cho hai ngươi đó. Nhớ báo cáo cho ta nếu có chuyện gì xảy ra và canh gác cho cẩn thận."

Ngay sau khi nhận được lệnh của Ares, Freiheit và Gesetz đều ra vẻ đồng ý, liền đi đến cổng Narak và bắt đầu phiên canh gác của mình. Gesetz canh gác cánh cổng bên phía Kaosriket và Freiheit canh gác bên phía Lapatorio, và cứ 2 tuần họ sẽ đổi chỗ cho nhau. Sau đó, Ares bảo Montu mở cổng dịch chuyển về Thần giới. Montu bắt đầu triệu hồi ra một đĩa Mặt trời khổng lồ, có kích thước còn lớn hơn cả rắn thần Naga. Đĩa Mặt trời bắt đầu hiện ra hình ảnh của một đại sảnh rộng lớn, có thể chứa hàng ngàn hoặc chục ngàn người, hai bên đều là những tạo vật vô giá, con đường được trải thảm đỏ có viền dát vàng kéo dài đến vô tận. Những bức tượng của các vị thần được điêu khắc trông như thật được đặt dọc hai bên đại sảnh cùng với những lá cờ biểu tượng cho từng vị thần. Những cột đá cẩm thạch sáng bóng, cao hàng chục mét được đặt giữa những bức tượng. Đến khi hình ảnh đã rõ ràng, Naga bắt đầu tiến tới cánh cổng cùng với 7 vị thần đang đứng uy nghiêm trên 7 cái đầu của nó. Chiếc đĩa giờ như chiếc gương và đồng thời là cổng dịch chuyển, Naga dần đi xuyên qua cánh cổng và sau một lúc thì không còn thấy sự hiện diện của Naga cùng các vị thần, chiếc đĩa dần thu nhỏ lại và biến mất.

Gesetz và Freiheit, hai vệ thần do Ares tạo ra, là tạo vật được hình thành từ hai mũi giáo đã được yểm phép từ trước do ông ném xuống. Mặt đất rung động và từ vị trí hai ngọn giáo và trồi lên hai bức tượng bằng đá khổng lồ, to gần bằng với cánh cổng Naraka. Cả hai đều mang thân hình đồ sộ, được trang bị áo giáp được chế tác tinh tế, có những đường trang trí mạ vàng và đính vài viên đá quý có thể tăng chỉ số, bộ giáp có thể kháng lại đa số đòn tấn công ma thuật và đòn tấn công vật lý trung cấp và số ít kỹ năng cao cấp. Tuy các vệ thần không có khuôn mặt xác định nhưng từ luồn hào quang phát ra có thể thấy được sự nghiêm túc thi hành nhiệm vụ của cả hai.

Gesetz được tạo hình như một pháp sư và có pha trộn một chút với lớp kiếm sĩ. Áo giáp bao gồm một bộ giáp bên trong và một áo choàng trùm đầu được yểm phép bảo hộ và cường hoá phép thuật. Tay trái cầm một quyển sách to tương xứng với ngoại hình khá dày, bên trong có chưa hầu hết tất cả các loại phép thuật từ những phép thuật tới những phép thuật cao cấp, và tất nhiên đã được thêm vào một vài cấm thuật trong trường hợp cần thiết. Quyển sách trông khá cũ nhưng bìa sách được thay mới hoàn toàn, có viền bằng vàng và đính vài viên đá quý, trên bìa còn khắc một dòng chữ được viết bằng Thần ngữ (ngôn ngữ của thần linh) có nghĩa là "Book of Gesetz" (Quyển sách của Gesetz). Tay trái cầm một quyền trượng cao tới vai của hắn, được làm từ vàng nguyên chất, được thiết kế tinh xảo, trên đầu của quyền trượng có khảm một viên ngọc khá to màu tím, được làm từ Uru và pha trộn với một ít Thạch anh Tím để tạo màu. Cây trượng có thể thi triển những phép thuật cao cấp và khuếch đại sức mạnh của người sở hữu. Một con rắn bằng vàng được quấn quanh cây quyền trượng và bao bọc lấy viên ngọc. Đôi mắt của con rắn được nạm vào hai viên Emerald (Ngọc lục bảo), có khả năng điều khiển sự sống và cái chết. Ngoài ra còn có một thanh kiếm ngắn được rèn từ Uru giắt bên phía tay cầm sách, đề phòng trong trường hợp phải đánh cận chiến. Gesetz còn đeo thêm một chiếc vòng cổ có hình một cái lồng giam, có thể chứa vô hạn bên trong, đây là nơi để giam giữ của những kẻ dám chống đối và đi qua cánh cổng Naraka. Trên ngực phải của bộ giáp có khắc hình một cán cân nhưng chỉ có một nửa, cái còn lại được khắc bên giáp của Freiheit.

Freiheit, người canh giữ bên phía Lapatorio, được tạo hình là một chiến binh thuần cận chiến. Được trang bị bộ giáp lấp lánh, tinh xảo cùng những đường hoa văn làm bật lên nét thần thánh bên trong bộ giáp. Thanh kiếm khá to, cao tới ngang hông của Freiheit, được rút ra khỏi bao kiếm, phản chiếu ánh sáng chiếu vào khắp nơi. Thanh kiếm được rèn bởi tài năng của Hephaetus, kim loại thần thánh Uru được luyện từ lõi của những ngôi sao đã tàn lụi dưới bàn tay khéo léo của Brokkr và Eitrit. Thanh kiếm có khả năng bổ đôi một ngọn núi, ngay cả những thứ cứng cáp nhất ở Anderewelt cũng bị nó cắt đứt như cắt xuyên qua một mảnh giấy. Freiheit cầm thanh kiếm cắm chặt xuống mặt đất, dùng hai tay gác lên chuôi kiếm, tạo ra một dáng đứng nghiêm trang như một hiệp sĩ, đầu ngẩng cao nhìn về phía tận cùng của Lapatorio. Thanh kiếm này chỉ có thể được sử dụng bởi Freiheit, Ares và Gesetz (vũ khí của Gesetz cũng vậy), nhưng do Gesetz được tạo hình là một pháp sư lai với chút kiếm sĩ nên sẽ khá khó khăn trong việc sử dụng, việc tương tự cũng xảy ra khi Freiheit sử dụng vũ khí của Gesetz. Một tấm khiên lớn, cao ngang vai Freiheit được mắc sau lưng, cũng được rèn cùng loại kim loại với thanh kiếm nên tấm khiên có độ chống chịu khá tốt, có khả năng kháng các hiệu ứng bất lợi, kháng những đòn tấn công vật lý và pháp thuật trung cấp và một vài loại cao cấp (Quyển sách của Gesetz cũng cung cấp những khả năng tương tự). Ở giữa tấm khiên có khảm một viên Ruby (Hồng ngọc), khá to, màu đỏ như máu, làm tăng các chỉ số phòng thủ, đồng thời ban cho khả năng hấp thụ phép thuật lên tấm khiên, sau đó chuyển hóa thành ma lực và truyền cho người sở hữu. Freiheit đeo một chiếc vòng cổ có hình chiếc chìa khóa. Đó là chiếc chìa khóa để mở cửa lồng giam của Gesetz, chính vì vậy nếu các tù nhân muốn được thả thì phải được thông qua sự phán xét của cả Gesetz và Freiheit. Bên ngực trái của bộ giáp có khắc hình một nửa cán cân còn thiếu của bên giáp của Gesetz.

Chiến trường Naraka sau này được biết đến là nơi có những đồng cỏ xanh mướt, là nơi ở của Gesetz và Freiheit, cổng Naraka và cái cây đại thụ khi hút cạn Đại tướng Rogue và thanh tẩy hết môi trường xung quanh. Cây đại thụ ấy được các sinh vật trong Lapatorio đặt tên là Cây của Sự Tái sinh (Tree of Reincarnation) hoặc đơn giản là Cây Artemis.

14 ngày đẫm máu đã chấm dứt, cả hai bên đều không phân thắng bại do có sự can thiệp của các vị thần. Không xác định được thương vong bên Đế Quốc Kaosriket do đa số là những Undead và một số xác chết của những con Wyvern. Về phía Lapatorio, hơn quá nửa binh lính tử trận, trong đó tất cả những tộc tham chiến đều có thương vong, tổ đội tiên phong của Anh hùng cũng gần như bị tiêu diệt, chỉ còn vài người may mắn sống sót cùng với Anh hùng nhưng đã tất cả đều đã dính trọng thương, nếu trận chiến còn kéo dài thêm vài ngày nữa thì chắc tổ đội của Anh hùng cũng không còn ai sống sót. Về phía thiệt hại nặng nhất chắc thuộc về Vương quốc Con người Halion, phần lớn các binh sĩ tham gia đều tử trận cộng thêm lượng quốc khố tiêu hao từ việc triệu hồi Anh hùng và chuẩn bị binh lực. Nền kinh tế của Vương quốc đang trên bờ vực sụp đổ, nhưng đó là một câu chuyện khác sẽ được nhắc đến ở phía sau. Chuyện quan trọng nhất hiện tại bây giờ,

Chiến tranh đã kết thúc, những tộc nhân còn sống sót được về quê hương của họ để chữa trị, những thi hài của các chiến binh tử trận được thu hồi về và đem đi chôn cất. Các tộc tham chiến đã đồng thuận với nhau rằng sẽ lập một nghĩa trang được đặt tại gần chiến trường Naraka để mai táng và tôn vinh những cống hiến to lớn và vĩ đại của các chiến binh dũng cảm. Một nơi an nghỉ của những chiến binh đã được dựng lên, quy mô khá lớn, được trang trí để tạo cảm giác uy nghiêm, một đài tưởng niệm lớn đã được đặt tại trung tâm để ghi danh những người đã tham gia trong trận chiến, hai chiếc bình khá lớn được đặt hai bên của đài tưởng niệm, đó là nơi đựng tro cốt của những tộc nhân đã bị ngọn lửa của Wyverns thiêu rụi. Những thi hài còn nguyên vẹn hoặc gần như nguyên vẹn được mai táng trang trọng, những ngôi mộ được tỏa ra xung quanh từ đài tưởng niệm theo hình tròn. Sàn được lát đá cẩm thạch trắng, tạo ra đường rẽ để tiện cho việc thăm viếng những ngôi mộ. Một đài hoa lớn được đặt trên đài tưởng niệm. Bên ngoài được bao bọc bởi một kết giới vô hình được yểm phép Preservation (Bảo quản), một phép thuật hệ Quang giúp cho mọi thứ bên trong kết giới được giữ như hiện trạng ban đầu, đồng thời giúp bảo vệ những hiện vật nằm ở trong bên trong kết giới. Sau nhiều tranh cãi về chọn cái tên cho nơi thánh địa này, cái tên Gran Gloria* đã được chọn và sau này được biết đến với cái tên Nghĩa trang Gran Gloria.

"Giọng hồi tưởng hay đấy ông bạn, cứ như những người sống sót trở về vậy."

"Trận chiến vĩ đại như thế mà kể với giọng chán ngắt thì không nên chút nào."

Dòng hồi tưởng dần kết thúc, cả hai đều kết thúc bằng tiếng cười lớn, vang vọng khắp cả quán rượu.

"Kỳ lạ thật."

"Anh nhận ra rồi à."

Thông thường một quán rượu đông nghẹt khách, ồn ào thường không tĩnh lặng đến mức này. Cả hai đều đưa mắt nhìn xung quanh, quán rượu đông đúc giờ đây không một bóng người, những bộ bàn ghế được xếp lên gọn gàng, các dụng cụ nhà bếp cũng như quầy rượu được lau chùi sạch sẽ, có thể phản chiếu cả ánh đèn vàng êm dịu, nhẹ nhàng còn sót lại tại quầy rượu, sàn nhà được lau chùi sạch bóng, thậm chí có thể dùng như một tấm gương.

Có vẻ cuộc nói chuyện giữa hai người đã quá sôi nổi, khiến họ quên đi những gì đang xảy ra xung quanh. Những tiếng ồn ào của bát đĩa cùng những tiếng la hét của những vị khách say xỉn dường như hóa hư không. Họ đã không nhận ra thời gian đã trôi qua bao lâu trong khi đang họ còn đang dở cuộc nói chuyện này. Tất cả những vị khách đều đã ra về và các nhân viên đã dọn dẹp xong hết quán, kết thúc một ngày đầy sôi động và mệt mỏi của mình.

Trong quán không một bóng người, chỉ còn một ánh đèn thắp sáng chỗ quầy rượu, nơi hai người đàn ông đang ngồi nói với về những ngày tháng huy hoàng của các thời đại trước. Người đàn ông trung niên lại tiếp tục câu chuyện bằng câu hỏi:

"Không biết sau cuộc chiến ấy thì vị Anh hùng kia làm gì nhỉ?"

"Quả là một người bí ẩn. Sau cuộc chiến thì những thông tin về vị Anh hùng đó không còn ai biết nữa, có rất nhiều tin đồn đã được tung ra nhưng cũng chỉ để câu khách."

"Những người trong tổ đội của anh ta cũng không biết luôn à?"

"Không rõ nữa, sau cuộc chiến ấy thì tổ đội cũng đã bị giải tán. Những người đồng đội của Anh hùng cũng không còn liên lạc nhiều với nhau, có người thì xin vào đội cận vệ hoàng gia, người thì làm mạo hiểm giả, nói chung tung tích thì cũng khó mà tìm được."

"Tôi nghe người ta nói rằng sau cuộc chiến anh ta đã rời khỏi Vương Quốc Halion và đi du ngoạn khắp cõi Lapatorio, hình như anh ta đều lập công lớn ở mỗi nơi anh ta đi qua thì phải?"

"Vĩ đại nhỉ?"

"Hình như sau đó anh ta đã tận hưởng những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời mình tại một nơi bí ẩn và hẻo lánh nhỉ?"

"Tôi cũng nghe người ta đồn vậy"

Hai người nhìn nhau trong im lặng, dường như họ đang đặt câu hỏi về sự ra đi của anh hùng: Tại sao anh lại rời khỏi Halion? Nếu anh ta chọn ở lại thì những phúc lợi mà anh được nhận còn đủ để anh sống một cuộc đời sung túc đến cuối đời? Liệu anh ta đã phát hiện ra điều gì đó?

Những câu hỏi "Nếu... thì..." liên tục hiện hữu trong đầu họ, cuộc nói chuyện lại bắt đầu sôi nổi trở lại. Hàng trăm giả thuyết được đưa ra về nguyên nhân ra đi của Vị Anh hùng, cuộc nói chuyện của họ sôi nổi trở lại, họ lại bị cuốn vào bầu không khí sôi nổi này. Bỗng dưng ông chủ quán đổi sang một chủ đề khác:

"Vương Quốc cũng thay đổi nhiều rồi nhỉ?"

"Kể từ sau khi gia tộc Vasilion lên nắm quyền thì mọi thứ khá hẳn lên."

"Đúng vậy, dù gì thì họ cũng là gia tộc góp công lớn nhất trong Cuộc Nội chiến 250 năm trước rồi mà, nếu không làm tốt thì họ làm gì còn có thể nắm ngôi tới tận bây giờ cơ chứ."

"Đúng là như vậy nhỉ?"

Cuộc Nội chiến 250 năm, hay còn gọi là Cuộc Nội chiến Halion, diễn ra ngay sau khi kết thúc Trận chiến Naraka vào 300 năm trước và cuối cùng cũng kết thúc sau 50 năm tranh giành quyền lực của các bè phái. Sau khi cuộc chiến Naraka kết thúc, Liên minh Lapatorio được thành lập, bao gồm các chủng tộc tham chiến và những chủng tộc sinh sống tại Lapatorio. Liên minh Lapatorio đã quyết định tạo nên một bộ lịch mới, thay thế cho bộ lịch hiện tại.

Sự hình thành bộ lịch mới tượng trưng cho một khởi đầu mới cho lãnh thổ Lapatorio sau cuộc chiến Naraka. Chiến tranh là điều không thể tránh khỏi ở mỗi quốc gia, nó đóng vai trò là một chất xúc tác cho sự phát triển của một quốc gia. Một mầm cây hy vọng đâm chồi, vươn lên từ đống tro tàn của chiến trận, sinh trưởng trên chiến trường và lan tỏa tia hy vọng cũng như ban phát sự sống cho mặt đất hoang tàn, bị tàn phá bởi những tàn dư của phép thuật. Nó tựa như một sự tái sinh từ cõi khô cằn, một khởi đầu mới để hướng để tiến đến một tương lai tương sáng. Có lẽ nữ thần Artemis cũng có đã có suy tính từ trước khi đặt hạt giống hậu duệ của Yggdrasil vào bên trong mũi tên của mình, những chiếc lá rơi từ cây Artemis tượng trưng cho sự tái sinh, có lẽ vì thế mà nó được đặt là Cây của sự Tái sinh.

Trùng hợp thay ngày kết thúc của trận chiến Naraka cũng là ngày cuối cùng của tháng trong bộ lịch cũ. Vì thế ngày bắt đầu của tháng sau chính là ngày đầu tiên của bộ lịch Lapatorio, ngày 01 tháng 01 năm 01; Năm 00 được định nghĩa là năm trận chiến Naraka bắt đầu.

Tuy nhiên, không phải mọi sự khởi đầu đều thuận lợi. Chẳng hạn như Vương quốc Halion, vùng đất bị chiến tranh ảnh hưởng nhiều nhất. Nền kinh tế bị phá hủy trầm trọng, đang trên bờ vực sụp đổ, cộng thêm sự ra đi của Anh hùng đã khiến tình hình của Vương quốc trở nên căng thẳng. Những cuộc tranh cãi giữa những thành viên nội bộ dần leo thang trở thành những cuộc tranh đấu quyền lực, biến nơi quan trọng nhất của Halion trở thành một nơi để tranh giành ngôi vua.

Hai đảng phái đối lập đã được hình thành âm thầm bên trong bộ máy đứng đầu Vương quốc Halion. Những mâu thuẫn trong giới quý tộc vốn căng thẳng nhưng giờ đây lại càng gay gắt hơn. Bên trong lâu đài bây giờ đã chia thành hai tổ chức đối lập nhau: Đảng Bảo thủ và Đảng Cải cách.

Đảng Bảo thủ bao gồm những quan chức và quý tộc cho rằng: phải tăng cường đánh thuế lên người dân, bóc lột những con người ở tầng lớp lao động và xử lý tàn bạo đối với những kẻ chống đối, từ đó có thể thu lợi và bắt đầu xoay xở lại nền kinh tế của quốc gia. Những con người cho rằng con người ở tầng lớp thấp hơn mình chỉ là những công cụ, những cỗ máy sinh tiền cho họ đều thuộc về Đảng Bảo thủ. Họ bắt đầu tiến hành những cuộc bóc lột, đàn áp những người dân đang sinh sống và làm việc trên khu vực của họ. Cho rằng bây giờ thứ quan trọng nhất để cứu rỗi đất nước chính là tiền và rất nhiều tiền. Không chỉ có những người đồng ý theo quan điểm ấy nằm trong Đảng Bảo thủ, còn có những tên quý tộc và quan chức bị biến chất, ám ảnh bởi sự thịnh vượng và quyền lực dù không cần phải bỏ ra một chút sức lực nào, các thương nhân cũng bị cuốn vào trận chiến tranh giành quyền lực này. Những vụ tham nhũng xảy ra tràn lan, các vụ buôn lậu được bảo vệ bởi các quý tộc, và cứ như thế, những đồng tiền dơ bẩn lại rơi và túi của lũ quý tộc và quan chức.

Tuy nhìn qua Đảng Bảo thủ là nơi tụ tập của những quý tộc và quan lại biến chất, của những hành động phi pháp cùng với những mưu đồ bất chính, nhưng trong đó vẫn tồn tại những con người tốt đẹp, hết lòng vì đất nước. Vì mục đích hình thành của Đảng Bảo thủ là để cứu lấy nền kinh tế đất nước, nhưng do đường lối hoạt động lệch lạc đã tạo nên những lỗ hổng trong nội bộ, vô tình biến Đảng Bảo thủ trở thành một miếng mồi ngon của những quan chức và quý tộc thối nát. Họ lợi dụng danh nghĩa của Đảng Bảo thủ để từ đó có thể thực hiện những phi vụ phạm pháp, những cuộc đàn áp dã man cũng như sự bóc lột tàn bạo để có thể thu lợi cho chính mình. Chính vì thế Đảng Bảo thủ bị người dân trong Vương quốc Halion xem là một Đảng xấu xa, được tạo ra nhằm mục đích thu lợi cá nhân. Từ một Đảng được tạo ra nhằm khôi phục nền kinh tế cho quốc gia, nhưng do lối suy nghĩ lệch lạc cùng với sự nhúng tay của các quan lại và quý tộc đã được coi là một là một vết nhơ cho những người tận tụy, dồn hết tâm huyết vào công cuộc giải cứu quốc gia. Mọi thứ đều tồn tại hai mặt tốt xấu của chung và tuỳ vào cách nhìn nhận của mỗi con người, một thứ có thể xấu với người này nhưng đối với người khác thì nó lại là một thứ tốt đẹp. Vì vậy sự đánh giá một cách khách quan từ những người dân trong vương quốc với Đảng đối lập là không hoàn chỉnh, phải đặt bản thân vào trong môi trường ấy, tình huống ấy và cách suy nghĩ ấy mới có thể nhận thức được liệu đây có phải đây là Đảng Bảo thủ xấu xa như lời đồn, hay là người dân chỉ nhìn vào những phần tiêu cực của phe Bảo thủ rồi từ đó quên đi những công lao mà họ đã đóng góp, tạo nên một cách nhìn nhận sai lầm: Rằng những kẻ thuộc Đảng Bảo thủ là những kẻ vốn chỉ trục lợi cá nhân mà quên đi nghĩa vụ của họ với quốc gia.

Một mặt khác, ở bên kia chiến tuyến, Đảng Cải cách bao gồm những quan chức và quý tộc theo quan điểm: phải cải cách cuộc sống của người dân, nhân dân đời sống ấm no thì mới có thể chuyên tâm làm việc, tạo ra năng suất cao và thu được lợi nhuận, từ đó có thể xoay chuyển nền kinh tế vốn đã sụp đổ. Họ luôn đặt người dân lên làm đầu, bắt đầu tạo ra những khoảng trợ cấp, cung cấp cơ hội làm việc cho những người dân thất nghiệp do tác động của chiến tranh. Trao cho họ một cơ hội để hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn, một khởi đầu mới chất chứa niềm hy vọng về một vương quốc đã được đổi mới, thoát khỏi những khuôn khổ cũ kĩ và lỗi thời. Điều đó được mọi người trong vương quốc ủng hộ nhiệt tình, khác xa so với Đảng Bảo thủ.

Tuy là một Đảng có lối suy nghĩ phát triển và được đông đảo nhân dân ủng hộ, nhưng suy cho cùng một Đảng sẽ không thể chiến thắng nếu xuất hiện sự nhân nhượng bên trong nội bộ. Chính vì thế cả hai Đảng đều có những cuộc thanh trừng đẫm máu đối với bên còn lại. Những vụ đầu độc, gián điệp và ám sát giữa các Đảng phái là không thể tránh khỏi, tất cả đều muốn được mọi người công nhận rằng đường lối mà họ chọn là đúng đắn và con đường ấy đã cứu nguy cho đất nước. Nhưng sự thật thì những hành động nằm sau bức màn sự thật chỉ có lợi cho Đảng Bảo thủ, vì họ vốn đã bị người dân coi là một Đảng tụ tập những quan chức quý tộc thối nát cùng những hành động phi pháp, mọi người coi chuyện bị đối xử tàn bạo và bóc lột là một chuyện thường ngày, chính vì thế nên khi bắt đầu xuất hiện những vụ ám sát những thành viên bên Đảng Cải cách thì họ cũng coi như đó là lẽ đương nhiên. Vì thế mà những cuộc thanh trừng luôn diễn ra một cách công khai mà cũng không xuất hiện những trường hợp phản đối.

Ngược lại, đối với Đảng Cải cách thì đây là một bất lợi lớn đối với họ, những cuộc ám sát và thanh trừng đều được diễn ra trong bóng tối. Vì trong góc nhìn của người dân, Đảng Cải cách là một Đảng bao gồm những con người lương thiện, ưu tiên nâng cao mức sống của người dân, nhưng họ lại không biết đến mặt đen tối của những cuộc chiến tranh giành quyền lực. Nếu Đảng Cải cách tiến hành những cuộc thanh trừng công khai, những người ủng hộ sẽ thấy một mặt tối của Đảng Cải cách và từ đó sự tín nhiệm cho Đảng Cải cách sẽ giảm xuống, dẫn đến sự mất cân bằng trong cán cân quyền lực giữa Đảng Bảo thủ và Đảng Cải cách. Nếu người dân chỉ nhìn nhận phần chìm của tảng băng và đánh giá toàn bộ Đảng Bảo thủ, còn đối với Đảng Cải cách thì người dân chỉ nhận ra được phần nổi của tảng băng mà từ đó quên đi mặt tối của những cuộc tranh đấu quyền lực. Chi tiết về cuộc tranh đấu dữ dội trong suốt 50 năm sẽ được đề cập sau.

"Quả là rắc rối nhỉ?"

Cuộc nói chuyện dần đi đến hồi kết, hai người nhìn nhau rồi hướng mắt ra bên ngoài. Màn đêm đã bắt đầu phủ lên thủ đô Apolique và Vương quốc Halion, những ngọn đèn đường được thắp lên rực sáng khắp thủ đô Apolique. Bên ngoài, mọi người tập trung ra những con đường, dòng người còn nhộn nhịp hơn lúc sáng. Ánh mắt của họ đều hướng lên bầu trời, dường như họ đang mong chờ điều gì đó. Ông chủ quán bắt đầu nói:

"Sắp đến lúc rồi nhỉ?"

"Mọi người đều đổ ra đường cũng là vì ngày này mà, chưa kể năm nay cũng là năm khá đặc biệt đúng không?"

"Phải rồi nhỉ, Kỷ niệm 300 năm ngày chiến thắng Trận chiến Naraka và 250 năm kết thúc Nội chiến Halion đều được tổ chức cùng ngày vào cuối năm mà, đông người như thế cũng dễ hiểu thôi."

"Cùng ra chung vui với mọi người nào anh bạn."

Ông chủ quán và người đàn ông trung niên vừa bàn chuyện vừa đi ra khỏi quán, hòa mình vào không khí sôi động của dòng người náo nhiệt. Bên ngoài, những tiếng reo hò, ăn mừng không ngớt, tất cả mọi người đều háo hức chờ đợi đến khoảnh khắc có thể cả đời họ cũng chỉ có thể chứng kiến một lần.

Bên trên bức tường của Cung điện Halion, một đội pháp sư cùng với quân phục chỉnh tề, được bao quanh bởi các lính canh được trang bị đầy đủ vũ khí, một không khí trang trọng bao trùm xung quang cung điện Halion. Từ đội cận vệ, một người đàn ông mặc bộ giáp màu đen tuyền như đang cố hòa mình vào bầu trời đêm, khuôn mặt nghiêm nghị cùng với một vết sẹo bên mắt trái, bộ tóc hơi nâu được cắt tỉa khá gọn gàng cùng với bộ râu khá dày nhưng không dài dần bước ra. Ông toát lên khí thế của một chiến binh anh dũng, người đã trải qua không biết bao nhiêu chiến trận, những người dân khắp Halion đều biết đến như một con người vĩ đại, người đã làm tròn nhiệm vụ bảo vệ cho cả hai thế hệ Nhà vua, ông là Tướng quân Vista, người nắm quyền quân đội hoàng gia và là cận vệ đắc lực của Nhà vua.

"Các pháp sư vào vị trí!"

Một giọng nghiêm trang vang lên, các pháp sư của quân đội hoàng gia giơ cao trượng phép, chuẩn bị đọc thần chú.

"Khai hỏa!"

Mệnh lệnh được đưa ra, đội pháp sư bắt đầu niệm phép:

"Reduced Fireball!!!"

Từ cây trượng, những quả cầu lửa với đầy đủ màu sắc được bắn lên bầu trời và phát nổ, tạo ra một cảnh tượng đầy đẹp đẽ và mê hoặc. Vụ nổ làm cho Cung điện Halion nổi bật lên trên màn đêm, những tia lửa xanh, đỏ, vàng,... phát ra từ vụ nổ, hòa chung với bầu trời đêm đầy sao, tạo ra một bức tranh tuyệt đẹp được kết hợp từ những gam màu sáng, vui tươi từ con người và bầu trời đêm đầy sao và yên tĩnh của thiên nhiên. Giống như những bông hoa nở rộ từ màn đêm, đem lại ánh sáng cho con người. Tất cả mọi người đều trông đợi đến thời khắc này. Khi những quả cầu được bắn lên, những âm thanh ồn ào từ đường phố bỗng dưng im bặt, mọi người đều nín thở chờ đợi thời khắc quả cầu phát nổ. Và sau khi quả cầu phát nổ tạo nên một tuyệt tác trên không trung, khung cảnh im lặng lại một lần nữa bị phá vỡ bởi tiếng reo hò và ăn mừng. Đường phố trở lại vẻ nhộn nhịp vốn có của nó, mọi người cùng nhau hát hò và vui chơi, tận hưởng lễ hội và cùng nhau cầu chúc cho một năm mới tốt đẹp.

Trở về phía lâu đài Halion, những người lính canh gác và đội ngũ pháp sư đều reo hò trong vui sướng. Vista thì im lặng ngắm nhìn bầu trời đêm, tập trung để có thể cảm nhận được vẻ đẹp của khung cảnh hiện tại.

"Chà, hoành tráng nhỉ!"

Người đàn ông trung niên với đôi mắt dán chặt vào bầu trời, sáng rõ lên như những đứa trẻ con nhận được quà từ bố mẹ chúng bỗng giựt mình khi nghe câu cảm thán tràn đầy ngưỡng mộ của người đàn ông đang đứng cạnh anh, ánh mắt cũng hướng lên bầu trời, ông chủ quán rượu. Ông cười một tiếng thật lớn rồi bắt đầu nói:

"Phải rồi nhỉ, dù gì một năm một lần nên cũng phải đầu tư chút chứ."

"Đúng vậy, không biết năm sau đang chờ đón ta những thứ gì đây."

*Chú thích:

Vương quốc Halion: được ghép từ Halo (mặt trời) và region (vùng đất)

Thủ đô Apolique: được ghép từ Apollo (một vị thần Hy Lạp) và unique (độc nhất)

Vương triều Vasilion: được lấy từ 1 từ tiếng Hy Lạp (Vasilikos) có nghĩa là hoàng gia

Cổng Naraka: được lấy từ 1 từ tiếng Hindi (Narak) có nghĩa là địa ngục

Brazen Bull: hay còn được gọi là Con bò đồng, một loại hình tra tấn tại Hy Lạp cổ. Tội phạm sẽ được nhốt bên trong một con bò làm bằng đồng, sau đó con bò sẽ thiêu cháy, làm bỏng tội phạm bị nhốt bên trong. Tiếng la hét của tội phạm sẽ thông qua một hệ thống đặc biệt giúp đổi tiếng la hét của nạn nhân thành tiếng rống của con bò.

Freiheit: nghĩa là Tự do trong tiếng Đức

Gesetz: nghĩa là Luật lệ trong tiếng Đức

Brokkr và Eitri: hai anh em Dwarf trong thần thoại Bắc Âu đã rèn Mjolnir cho Thần Thor

Nghĩa trang Gran Gloria: nghĩa là "Vinh quang vĩ đại" trong tiếng Tây Ban Nha.